Ban hành danh mục sử dụng lao động đã qua đào tạo – giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia

Thực hiện chương trình công tác năm 2020, Bộ LĐTB&XH đang chuẩn bị ban hành Thông tư quy định Danh mục ngành nghề người sử dụng lao động phải sử dụng lao động đã qua đào tạo. Đây được coi là giải pháp quan trọng để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo, góp phần nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia

Tại sao phải ban hành Danh mục sử dụng lao động đã qua đào tạo?

Lao động qua đào tạo có vai trò quan trọng vào việc bảo đảm năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Xác định được tầm quan trọng của lao động qua đào tạo, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định mục tiêu đến năm 2020, tỉ lệ lao động qua đào tạo của cả nước đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%. Mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết không cao, song đến nay tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế mới chỉ đạt 58,6%[1], trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 3 tháng trở lên có văn bằng, chứng chỉ chỉ đạt 23,1%, nghĩa là vẫn còn 76.9% người tham gia lực lượng lao động chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật[2].

Ảnh minh họa

Theo đánh giá của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) trong Chương trình khung hợp tác Việt Nam về việc làm bền vững giai đoạn 2017 – 2021[3], chất lượng của nguồn nhân lực vẫn còn là một rào cản đối với sự phát triển của Việt Nam. Trong số 16 yếu tố được coi là vấn đề đối với kinh doanh ở Việt Nam thì có yếu tố “lực lượng lao động không được đào tạo đầy đủ” là yếu tố quan trọng thứ ba, sau yếu tố “thiếu sự ổn định về chính sách” và “tiếp cận với tài chính”. Theo ILO, những “khoảng trống về kỹ năng” sẽ được thu hẹp thông qua đào tạo do doanh nghiệp hay các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (GDNN) tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.

Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, hiện nay các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI tập trung sử dụng những lao động trẻ, chủ yếu là những lao động phổ thông có độ tuổi từ 18 đến 20 đang diễn ra rất phổ biến. Theo một thống kê của doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng từ phía doanh nghiệp đối với lao động phổ thông đạt tới con số hơn 40% nhu cầu so với những nguồn nhân lực khác. Người lao động gần như không được đào tạo bài bản và được đưa vào làm việc ngay, trình độ kỹ năng rất hạn chế. Điều này dẫn đến hệ quả là năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng của cả nền kinh tế nói chung còn thấp, chưa nói đến quyền lợi của người lao động không được đảm bảo, người lao động không được bảo vệ thỏa đáng do không có chứng nhận, công nhận về trình độ và những rủi ro cho người lao động như an toàn lao động (do thiếu kỹ năng lao động), bị trả lương thấp, bị sa thải bất cứ lúc nào khi doanh nghiệp thay đổi công nghệ.v.v…

Trong bối cảnh thị trường lao động ngày càng phát triển, đa dạng cả về ngành nghề và quy mô thì nâng cao hiệu quả công việc cũng như bảo đảm an toàn trong hoạt động nghề nghiệp là vấn đề vô cùng quan trọng. Theo báo cáo của 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2017 trên toàn quốc đã xảy ra 8.956 vụ tai nạn lao động (TNLĐ) làm 9.173 người bị nạn (bao gồm cả khu vực có quan hệ lao động và khu vực người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động)[4]. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do người lao động chưa được đào tạo, do đó mặc dù đã được người sử dụng lao động huấn luyện về vệ sinh, an toàn lao động nhưng tai nạn lao động vẫn xảy ra.

Chính vì vậy, việc xây dựng danh mục ngành, nghề sử dụng lao động đã qua đào tạo là rất cần thiết nhằm hạn chế tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, đảm bảo và nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản phẩm, dịch vụ do những nghề, công việc này cung cấp, từ đó nâng cao giá trị, hiệu suất kinh tế cho cá nhân, doanh nghiệp và toàn xã hội. Việc này có lợi cho cả doanh nghiệp và người lao động. Người lao động sẽ có ý thức hơn trong nâng cao nghề nghiệp, còn doanh nghiệp cũng có trách nhiệm hơn với quyền lợi của người lao động.

Cơ sở pháp lý để ban hành Danh mục này là gì?

Việc xây dựng Dự thảo Thông tư Danh mục ngành, nghề sử dụng lao động đã qua đào tạo dựa trên những căn cứ sau:

– Theo quy định tại khoản 8, Điều 52 của Luật Giáo dục nghề nghiệp về trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp thì doanh nghiệp sử dụng lao động đã qua đào tạo hoặc có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia đối với những nghề trong danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định;

– Khoản 2 Điều 212 của Bộ luật lao động năm 2019 đã xác định nội dung quản lý nhà nước về lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động là: “Quy định danh mục nghề chỉ được sử dụng lao động đã qua đào tạo giáo dục nghề nghiệp hoặc có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia”.

– Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 28/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển nhân lực có kỹ năng nghề nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới đã giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương, khuyến khích doanh nghiệp chỉ sử dụng lao động đã qua đào tạo nghề nghiệp hoặc có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia.

Vì vậy, việc xây dựng và ban hành “Thông tư ban hành Danh mục ngành, nghề sử dụng lao động đã qua đào tạo” vừa rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay vừa bảo đảm cơ sở pháp lý theo quy định.

Một số nội dung chính của Thông tư ban hành Danh mục

Hiện nay Dự thảo Thông tư đang trong quá trình hoàn thiện để ban hành. Thông tư gồm 04 điều và 02 danh mục ban hành kèm theo;

Các danh mục ngành nghề này được nghiên cứu, xem xét trên cơ sở đề xuất của các Bộ, ngành và được xác định theo tính chất, mức độ của ngành nghề đó ở 3 tiêu chí: (1) đối với sự nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm của người lao động (sự an toàn của người lao động); (2) đối với việc sản xuất, kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng (sự an toàn của người tiêu dùng và xã hội) và (3) tiến tới việc nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế. Theo đó, Danh mục ngành nghề sử dụng lao động đã qua đào tạo gồm:

Danh mục 1: Bao gồm 68 ngành, nghề sử dụng lao động đã qua đào tạo áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2022. Đây là những ngành, nghề đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm (điều kiện lao động ở nhóm V và nhóm VI) theo Danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ban hành kèm theo Thông tư số 15/2016/TT-BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;

– Danh mục 2: Bao gồm 90 ngành, nghề sử dụng lao động đã qua đào tạo áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2023. Đây là những ngành, nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm (điều kiện lao động ở nhóm IV) theo Danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ban hành kèm theo Thông tư số 15/2016/TT-BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và một số ngành nghề liên quan đến sức khỏe, các dịch vụ liên quan đến phục vụ con người, các ngành nghề quan trọng phục vụ phát triển kinh tế – xã hội (các nghề trọng điểm ở các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế).

Dự thảo Thông tư cũng xác định lộ trình thực hiện Danh mục ngành nghề sử dụng lao động qua đào tạo bao gồm 3 giai đoạn:

+ Giai đoạn 1: Từ ngày 01/01/2022: Áp dụng cho Danh mục 1, bao gồm 117 ngành, nghề đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, vì nếu những người lao động trong lĩnh vực này không được đào tạo thì nguy cơ xảy ra tai nạn lao động là rất lớn, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe và không bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong môi trường lao động khó khăn, vất vả.

+ Giai đoạn 2: Từ ngày 01/01/2023: Áp dụng cho Danh mục 2, bao gồm 59 ngành, nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểmnhững ngành, nghề phổ biến, quan trọng (như đã nêu trên). Cũng tương tự như Danh mục 1, nếu những người lao động trong lĩnh vực này không được đào tạo thì dễ xảy ra mất an toàn lao động, không được đào tạo thì không có kỹ năng làm việc, năng suất thấp, thu nhập thấp, công việc không ổn định, ảnh hưởng chung đến cả nền kinh tế. Mặt khác, người lao động ở những ngành, nghề này đòi hỏi phải qua đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và sự an toàn của người sử dụng các sản phẩm, dịch vụ trong một số lĩnh vực như y tế, du lịch dịch vụ, giao thông vận tải.v.v…

+ Giai đoạn 3: Từ ngày 01/01/2024: Áp dụng cho các ngành nghề còn lại trong Danh mục ngành, nghề đào tạo theo quy định tại Thông tư số 04/2018/TT-BLĐTBXH ngày 02 tháng 03 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Danh mục ngành, nghề đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, cao đẳng và các ngành, nghề khác ở các trình độ sơ cấp, và các ngành, nghề được quy định bởi các luật chuyên ngành.

Việc xác định lộ trình nêu trên để các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động chủ động trong việc tự đào tạo, đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp cho người lao động theo các trình độ phù hợp.

Dự thảo Thông tư đã gửi lấy ý kiến của các Bộ, ngành địa phương, cơ sở GDNN. Về cơ bản, các ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, cơ sở GDNN đều đồng thuận với Danh mục này. Hiện nay, Bộ LĐTB&XH đang tiếp tục lấy thêm ý kiến của các doanh nghiệp để hoàn thiện thêm Dự thảo.

(Dự thảo Danh mục hiện đang có tại địa chỉ https://daotaocq.gdnn.gov.vn/van-ban-tai-lieu/)

[1] Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội năm 2018 của Chính phủ

[2] Tổng cục Thống kê, Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019

[3] ILO, Chương trình khung hợp tác Việc làm bền vững giai đoạn 2017 – 2021

[4] Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng danh mục ngành nghề yêu cầu sử dụng lao động có văn bằng chứng chỉgiáo dục nghề nghiệp, năm 2019

Đức Ngọc